Chủ Nhật, 28 tháng 5, 2023

 

BÀI DỰ THI

CUỘC THI CHÍNH LUẬN VỀ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG LẦN THỨ BA, NĂM 2023

 

 

 

Chủ đề:

 

Sức sống mãnh liệt, trường tồn của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Loại hình:

Tạp chí

 

 

 

 

 

 

Hà Nội, tháng 5 năm 2023


SỨC SỐNG MÃNH LIỆT, TRƯỜNG TỒN CỦA

CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Tóm tắt:“Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh- Nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Trải qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng, niềm tin, sự kiên định, lòngtrung thành và sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam đã tạo nên bản lĩnh, sức mạnh truyền thống, uy tín của Đảng đã quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Yêu cầu xây dựng Đảng, sự nghiệp đổi mới đất nước và tình hình thế giới đang đặt ra, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu toàn diện, sâu sắc hơn cả trên phương diện lý luận và thực tiễn nhằm tiếp tục khẳng định giá trị lịchsử, ý nghĩa to lớn, vĩ đại và sức sống mãnh liệt, trường tồn của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, nhận thức sâu sắc tầm quan trọng, xác định những định hướng cơ bản để nghiên cứu, quán triệt, vận dụng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”.

Từ khoá: Sức sống mãnh liệt, trường tồn…

Chủ nghĩa Mác-Lê nin là kết quả đỉnh cao của tư duy khoa học, sản phẩm của hoạt động sản xuất và đấu tranh cách mạng bền bỉ, sáng tạo của các đảng cộng sản và giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên toàn thế giới. Chủ nghĩa Mác-Lê nin kế thừa, phát triển sáng tạo thành tựu tư tưởng khoa học của loài người, trong đó trọng tâm là triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị học của Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp. Điểm vượt trội của chủ nghĩa Mác-Lê nin so với các học thuyết khác ở chỗ, nó là học thuyết duy nhất từ trước đến nay đề cập đến mục tiêu, con đường, lực lượng, cách thức, phương pháp đấu tranh xoá bỏ mọi áp bức bóc lột, bất công, thực hiện giải phóng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng xã hội, giải phóng dân tộc và nhân loại. Chủ nghĩa Mác –Lê nin vượthơn hẳn mọi học thuyết khác còn bởi ở chỗ, nó là học thuyết duy nhất phát hiện, lý giải đúng đắn vai trò của quần chúng nhân dân đối với sự phát triển của lịch sử, phát hiện và xác lập đúng đắn vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, là học thuyết duy nhất từ trước đến nay không bi luỵ, không chịu sự “đỡ đầu” của giai cấp thống trị mà còn trực tiếp tuyên chiến với giai cấp thống trị, đưa giai cấp công nhân từ địa vị nô lệ làm thuê lên địa vị lãnh đạo xã hội, lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm xoá bỏ chế độ áp bức bất công. Với những giá trị cách mạng vĩ đại đó, chủ nghĩa Mác-Lê nin được giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả những ai muốn đấu tranh xoá bỏ áp bức bất công, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng, đón nhận nhiệt thành và kiên quyết đấu tranh bảo vệ và áp dụng trong thực tiễn cuộc sống và đấu tranh cách mạng. Ngay từ khi ra đời, chủ nghĩa Mác-lê nin đã trở thành vũ khí lý luận, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của các đảng cộng sản và giai cấp công nhân trên thế giới. Thực tế lịch sử cho thấy, từ khi chủ nghĩa Mác-Lê nin ra đời, xâm nhập phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo thế giới và tính chất của thời đại. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười năm 1917 đã mở ra một thời đại mới,thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, chủ nghĩa xã hội trở thành mục tiêu hướng tới của toàn nhân loại. Cùng với đó, sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa, sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ trên toàn thế giới đều được khởi phát bởi chủ nghĩa Mác –Lê nin. Không chỉ kết tinh giá trị cách mạng, chủ nghĩa Mác-Lê nin còn bao trùm những giá trị khoa học vĩ đại.Bằng những luận thuyết tiêu biểu như chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng duy vật, học thuyết hình thái-kinh tế xã hội, học thuyết giá trị thặng dư, học thuyết đấu tranh giai cấp, học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân…, chủ nghĩa Mác-Lê nin đã tạo ra cuộc cách mạng nhận thức trên phạm vi toàn thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, chủ nghĩa Mác-Lê nin đã đưa ra cách giải thích thực sự khoa học về nguồn gốc, động lực phát triển của loài người, vạch trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa duy tâm dưới mọi màu sắc, mở đường cho khoa học phát triển, tạo tiền đề giải phóng con người, giải phóng xã hội khỏi sự thống trị của chủ nghĩa duy tâm và những quan niệm định kiến bảo thủ, lỗi thời, lạc hậu. Với những giá trị khoa học vĩ đại đó, chủ nghĩa Mác-Lê nin” đã cung cấp cho loài người và nhất là giaicấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại” ([1]). Năm tháng qua đi, giá trị của chủ nghĩa nhân đạo, giá trị của chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật, linh hồn của chủ nghĩa Mác-Lê nin mãi mãi là những giá trị vĩnh hằng. Các trào lưu trường phái khác có thể đưa ra những học thuyết mới với những kiến giải mới dưới mọi màu sắc, quan điểm lập trường khác nhau song suy xét đến cùng, chỉ có chủ nghĩa Mác-Lê nin là khoa học và cách mạng vì mục tiêu giải phóng con người, phát triển con người. Nhân loại trong hành trình hướng tới những giá trị xã hội tốt đẹp luôn luôn cần đến chủ nghĩa Mác-Lê nin. Loài người trong hành trình khám phá,cải tạo thế giới luôn cần đến sự soi đường chỉ lối của thế giới quan, phương pháp luận Mác-Lê nin. Đó cũng là những nhân tố biểu hiện tính chất ưu việt, sức hấp dẫn và sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác-Lê nin.

Trong lịch sử nhân loại, chưa có một học thuyết chính trị-xã hội nào mà ngay từ khi mới xuất hiện lại thu hút sự quan tâm nghiên cứu, đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt giữa các lập trường tư tưởng đối lập nhau như sự ra đời của chủ nghĩa Mác-Lê nin. Điều đó không phải ngẫu nhiên, bởi chủ nghĩa Mác-Lê nin là một khoa học chân chính, không chỉ giải thích thế giới mà còn đề cập con đường cải tạo thế giới. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác-Lê nin đã thực sự giải đáp được những vấn đề của thực tiễn cuộc sống của toàn nhân loại đã và đang đặt ra.Trong lúc toàn bộ hệ thống lý luận tư sản đều tìm cách biện minh cho chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, thì ngược lại chủ nghĩa Mác-Lê nin đã tuyên chiến với hệ tư tưởng tư sản và khẳng định sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản, sự tất yếu, tất thắng của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác –Lê nin không  chỉ tuyên chiến với hệ tư tưởng của giai cấp thống trị mà chỉ ra con đường đấu tranh với tất cả những trào lưu tư tưởng, tập tục định kiến bảo thủ lỗi thời, tàn dư của xã hội. Bởi có tinh thần khoa học triệt để cách mạng, chủ nghĩa Mác-Lê nin đã trở thành kẻ thù lớn nhất, nỗi bận tâm, ám ảnh lớn nhất về mặt tư tưởng lý luận của chủ nghĩa tư bản hiếu chiến phản động và tất cả những thế lực muốn duy trì sự thống trị bất công trong đời sống nhân loại. Chính vì lẽ đó, cho nên, kể từ khi ra đời cho đến nay, chủ nghĩa Mác-Lê nin luôn luôn bị kẻ thù đủ loại chống phá điên cuồng. Các thế lực phản động đã không từ một âm mưu thủ đoạn nào trong chống phá chủ nghĩa Mác-Lê nin. Chúng tiến công từ những vấn đề cơ sở của sự ra đời, , từ quá trình vận động, phát triển đến việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lê nin trong thực tiễn. Chúng xuyên tạc thân thế, sự nghiệp của các nhà kinh điển, công kích toàn bộ nội dung, các bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác-Lê nin,lợi dụng triệt để việc các đảng cộng sản, các nhà nước xã hội chủ nghĩa hiểu chưa đúng đủ, vận dụng sai lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin trong thực tiễn. Chúng tập trung chống phá những luận điểm, những lý luận nguyên tắc căn bản, then chốt có ý nghĩa quyết định bản chất nhất của chủ nghĩa Mác-Lê nin. Chúng tiến công trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, đánh vào chủ nghĩa xã hội hiện thực, sản phẩm của chủ nghĩa Mác-Lê nin trong thực tế. Chúng triệt để lợi dụng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu và những khó khăn bất cập của các nước xã hội chủ nghĩa để xuyên tạc bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác-Lê nin. Chúng đánh đồng qui chụp rằng sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực chính là sự lỗi thời lạc hậu của chủ nghĩa Mác-Lê nin..Tuy nhiên, điều kỳ lạ, bất chấp sự chống phá điên cuồng và những thăng trầm lịch sử, chủ nghĩa Mác-Lê nin ngày càng tỏ rõ sức sống vĩ đại và sự lan toả mạnh mẽ. Những biến đổi dù phức tạp, khó lường của thế giới hiện nay vẫn chưa vượt qua khỏi những qui luật mà chủ nghĩa Mác-Lê nin đã khái quát. Sự khủng hoảng nghiêm trọng đầy bất ngờ của chủ nghĩa tư bản hiện đại đã làm lung lay, lu mờ các giá trị, niềm tin về nền tảng lý luận tư sản. Trong bối cảnh ấy, không chỉ nhân loại tiến bộ mà ngay cả các chính trị gia, các học giả tư sản đều nhận rõ hơn giá trị khoa học “ vượt trước thời đại” của chủ nghĩa Mác- Lê nin. Chính nhiều học giả, nhiều chính khách tư sản đã khẳng định thế kỷ XXI vẫn là thế kỷ của chủ nghĩa Mác. Trong các cuộc bình chọn của một số tổ chức truyền thông khoa học, giáo dục danh tiếng thế giới, các nhà kinh điển sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lê nin, đặc biệt là Các- Mác luôn giữ vị trí đứng đầu. C.Mác được suy tôn là “nhà triết học vĩ đại của mọi thời đại”. Cũng chính các học giả tư sản, trước cơn khủng hoảng bế tắc của chủ nghĩa tư bản, đã kêu gọi nhân loại “trở về với Mác”, rằng “nhân loại sẽ không có tương lai nếu không có Mác, nếu không có các di sản của Mác”, rằng” sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác là bất diệt”, “vai trò dẫn đường của thời đại mới vẫn chính là chủ nghĩa Mác”..Những điều nêu trên là minh chứng hùng hồn cho sức sống  trường tồn của Chủ nghĩa Mác-Lê nin trong tình hình mới.

Cùng với chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng tỏ rõ giá trị khoa học, cách mạng, sức sống lan toả mãnh liệt ở Việt Nam và các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Chủ nghĩa mác-Lê nin là cội nguồn, nhân tố sinh thành Đảng cộng sản Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lấy chủ nghĩa Mác-Lê nin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Trải qua 93 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tỏ rõ niềm tin,sự kiên định với chủ nghĩa Mác-Lê nin trước những biến đổi lớn lao, phức tạp của thời cuộc. Niềm tin và sự kiên định đó đã được Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đặt nền móng và khẳng định ngay từ khi cách mạng còn trong trứng nước. Năm 1927, trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người đã viết: “ bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê nin”,” Đảng muốn vững phải có có chủ nghĩa làm cốt”; “ Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” ([2]). Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam có ghi: “ Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”([3]). Thực tế đã chứng tỏ, chính niềm tin, sự kiên định, trung thành vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin là cội nguồn tạo nên những thắng lợi rực rỡ cho dân tộc và cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam, thành công của cách mạng Tháng Tám năm 1945, thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng như thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, trước hết và trên hết, đó chính là thắng lợi, thành quả của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, minh chứng cho sức sống vĩnh hằng  của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người có công lao to lớn trong nghiên cứu, truyền bá , tổ chức vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin vào điều kiện cụthể Việt Nam, đưa đến những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.  Chính quá trình này đã đưa đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác-Lê nin là nguồn gốc lý luận trực tiếp quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tháng 6/1991, Đảng ta xác định: “ Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng”([4]). Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “ Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quí giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi” ([5]). Thực tế cách mạng nước ta cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quí giá của Đảng và dân tộc ta, đã cổ vũ, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi. Chính vì lẽ đó, mà trải qua biết bao khó khăn của cách mạng, thăng trầm của lịch sử nhưng toàn đảng, toàn dân, toàn quân ta vẫn kiên định, tin tưởng, phấn đấu theo con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát hiện, lựa chọn, cống hiến cho dân tộc Việt Nam, đó là Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Điều đó thật sự cảm động, nhận được sự khâm phục của cộng đồng thế giới, bởi trong lịch sử xã hội loài người, chưa có ở đâu, tình cảm và sự tin yêu của người dân đối với lãnh tụ lại sâu sắc, sắt son từ trong tâm khảm đến hiện thực cuộc sống như toàn dân Việt Nam đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bất chấp sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, thân thế, sự nghiệp, tư tưởng của người mãi mãi hiện diện trong tâm thức của  mọi thế hệ người dân Việt Nam, soi đường, chỉ lối cho toàn đảng, toàn dân, toàn quân ta phấn đấu thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không chỉ ở Việt Nam, trên thực tế, thân thế, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh có tầm ảnh hưởng thời đại, đã và đang có sức lan toả rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới. Do những cống hiến đặc biệt xuất sắc cho dân tộc Việt Nam và nhân loại, nên Người đã được thế giới suy tôn là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành tấm gương, biểu tượng, niềm tin của các dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chống áp bức nô dịch, bất bình đẳng giữa các dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, về văn hoá, về con người đã được thế giới thừa nhận như là tư tưởng góp phần làm biến đổi bộ mặt thế giới. Tư tưởng của Người đã đi vào cuộc sống, đã trở thành những giá trị văn hoá bền vững, không chỉ riêng của dân tộc Việt Nam mà còn là tài sản chung của nhân loại. Đúng như Tiến sĩ M.Át-Mét, giám đốc UNESCO khu vực  Châu á- Thái Bình Dương nhận xét: “ Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay từ khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó. Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng dân tộc cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này” ([6]).

Bước vào thế kỷ XXI, trước những diễn biến phức tạp của đời sống chính trị thế giới, trước tác động tiêu cực của toàn cầu hoá nền kinh tế, các quốc gia dân tộc đang nỗ lực đấu tranh gìn giữ hoà bình, chủ quyền, bản sắc văn hoá dân tộc. Trong bối cảnh đó, tư tưởng Hồ Chí Minh càng tỏ rõ giá trị được quan tâm nghiên cứu và truyền bá ở nhiều quốc gia, dân tộc. Một học giả nước ngoài từng nhận xét tinh tế: “ Hồ Chí Minh làm cách mạng không chỉ giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột,mà cái cao quí nhất là để giải phóng con người khỏi nền văn hoá nô dịch và xây dựng nền văn hoá dân tộc…cuộc đời hoạt động và sự nghiệp vĩ đại của Người là tấm gương cao đẹp và trong sáng về một quan niệm nhân sinh về thế giới, toả sáng chủ nghĩa nhân văn mới, kết tinh những tư tưởng, tình cảm, những ước mơ lớn của nhân loại. Bởi thế, những tư tưởng văn hoá của Người đến với các dân tộc như một lẽ tự nhiên có sự cổ vũ sâu sắc mỗi con người, mỗi dân tộc” ([7]). Chính bởi những lý do bình dị mà vĩ đại đó, “ Người không phải là một kỷ niệm của quá khứ. Người là một con người diệu kỳ cho tất cả mọi thời đại”([8]).

Tầm quan trọng và định hướng cơ bản trong nghiên cứu quán triệt, vận dụng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc học tập lý luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “ Đảng phải chống cái thói xem nhẹ học tập lý luận. Vì không học tập ký luận thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí hủ hoá, xa rời cách mạng”([9]). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định quyết tâm: “ Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường Xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh ([10]). Điều đó đòi hỏi bức thiết chúng ta phải luôn coi trọng nghiên cứu, quán triệt, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp. Cuộc  xung đột giữa Nga-Ucraina, thực chất là cuộc chiến giữa Mỹ, Phương Tây và Nga ngày càng sâu sắc, thảm hoạ động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ và Syri vừa qua làm cho thế giới đã bất ổn càng trở nên bất ổn hơn, nhiều vấn đề mới nảy sinh trong đời sống xã hội đòi hỏi lý luận phải giải đáp thấu đáo, trong khi đó, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, có biểu hiện mơ hồ mất cảnh giác trước âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, sa sút về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, mắc vào nạn tham ô, lãng phí, tiêu cực, nhiều cán bộ, đảng viên mắc căn bệnh sao nhãng việc học tập lý luận….,đó là mảnh đất tốt để các thế lực phản động, gieo rắc mầm mống chống phá ta. Để việc nghiên cứu vận dụng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự có hiệu quả, mỗi chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau đây:

Thứ nhất, cần tiếp tục nghiên cứu sâu sắc, toàn diện, khẳng định những giá trị khoa học, cách mạng vĩ đại của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi trọng đầu tư nghiên cứu sâu sắc, toàn diện hệ thống lý luận kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng HồChí Minh, qua đó tiếp tục phát hiện, khẳng định những giá trị khoa học, cách mạng mới. Cần bám sát tình hình thế giới, trong nước, kiên định lập trường, thế giới quan duy vật biện chứng để nghiên cứu tổng kết thực tiễn, khái quát kinh nghiệm, góp phần bổ sung, phát triển lý luận Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên quyết đấu tranh, khắc phục các biểu hiện chủ quan, kinh nghiệm, “sinh lý luận”, tư biện, máy móc, giáo điều trong nghiên cứu, quán triệt,, giáo dục, phổ biến lý luận.

Thứ hai, tuyệt đối trung thành, tin tưởng, kiên định, tổ chức vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế. Lý luận cách mạng chỉ thực sự có ý nghĩa “soi đường,chỉ lối”, trở thành sức mạnh trong cải tạo thực tiễn khi nó thâm nhập vào phong trào cách mạng, xâm nhập hướng dẫn nhận thức, thái độ hành vi của mỗi con người. Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng nước ta. Do vậy, mọi cán bộ, đảng viên phải tuyệt đối trung thành, tin tưởng, kiên định, mẫu mực, kiên trì học tập, quán triệt vận dụng lý luận Mác-Lê nin trong mọi hoạt động thực tiễn, hết sức tránh các hiện tượng thiếu nhất quán giữa lời nói và hành động, nói và làm không theo nghị quyết của Đảng, hoặc hành động chủ quan, kinh nghiệm, duy ý chí, kém lý luận, khinh lý luận hoặc lý luận suông. Trên cơ sở kết quả tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu lý luận,tăng cường nghiên cứu các giải pháp tuyên truyền phổ biến, giáo dục nâng caohiểu biết cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân về những nguyên lý, giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành hệ giá trị chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội nước ta.

Thứ ba, chủ động, tích cực đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch, cơ hội, phản động. Để bảo đảm định hướng chính trị, cần tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của cấp uỷ, chính quyền các cấp. Phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên, bồi dưỡng nâng cao năng lực đấu tranh cho toàn dân, coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận có tâm có tầm, trên cơ sở đó, phát huy sức mạnh tổng hợp để cuộc đấu tranh chống “ diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, lý luận thực sự có hiệu quả. Theo hướng đó, cần tập trung nâng cao chất lượng đấu tranh phản bác, tiến công tư tưởng, lý luận chống các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng tăng hàm lượng khoa học, tăng độ sâu lý luận, cập nhật thông tin, luận cứ, luận chứng sắc bén, có lý,có tình,có sức thuyết phục. Các cơ quan chức năng cần theo dõi, cập nhật thông tin cho các lực lượng chuyên trách và cho toàn dân hiểu rõ dã tâm, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch,qua đó giáo dục tăng cường sức đề kháng, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân

Thứ tư , đối với lực lượng cựu chiến binh, là lực lượng đông đảo đã từng hy sinh cống hiến xương máu, cùng toàn đảng, toàn dân giành lại độc lập tự do cho tổ quốc, nên hơn ai hết, lực lượng này rất thấu hiểu giá trị của độc lập tự do, nhiều đồng chí cán bộ, hội viên cựu chiến binh  đã trải qua các cương vị lãnh đạo, chỉ huy trong quân đội, được đào tạo cơ bản, có kiến thức chuyên sâu cả về lý luận chính trị và trình độ kỹ, chiến thuật, có bản lĩnh chính trị vững vàng, nay về đời thường, nhiều đồng chí tiếp tục tham gia công tác ở địa phương, được cấp uỷ địa phương và nhân dân tín nhiệm phân công đảm nhiệm các cương vị chủ chốt, quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của hệ thống chính trị ở cơ sở, nhiều đồng chí giữ cương vị Bí thư cấp uỷ, tổ trưởng, tổ phó tổ dân phố, trưởng, phó các đoàn thể và mặt trận tổ quốc, trưởng, phó tổ bảo vệ, an ninh nhân dân…)., đây là lực lượng nòng cốt tin cậy, tinh nhuệ trong bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, nhân dân ở khu dân cư.  Đặc biệt là lực lượng xung kích trong  đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch của các phần tử phản động, lạc hậu. Vì thế, để phát huy vai trò, hiệu quả của lực lượng cựu chiến binh đối với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cấp uỷ, chính quyền các cấp  cần quan tâm bồi dưỡng, tạo điều kiện để  lực lượng cựu chiến binh thường xuyên nắm bắt tình hình,  tiếp nhận nguồn thông tin chính thống, có cơ sở lý luận để bảo vệ các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch của các thế lực thù địch. Lực lượng cựu chiến binh thường xuyên phối hợp với các lực trong cơ quan và trên địa bàn, đặc biệt là phối hợp với lực lượng công an, quân đội, cơ quan quân sự địa phương, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ..trong tổ chức các hoạt động, nhất là hoạt động tuyên truyền giáo dục truyền thống Quân đội, truyền thống của Đảng, của Đoàn, truyền thống của Cựu chiến binh…nhân các ngày lễ kỷ niệm lớn của đất nước và thủ đô, qua đó bồi dưỡng, giáo dục và giác ngộ lý tưởng cách mạng cho các tầng lớp nhân dân ở địa phương, tạo thế trận đấu tranh to lớn, mạnh mẽ, rộng khắp, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân ở cơ sở.

Thứ năm, đối với LLVT địa phương (bao gồm lực lượng thường trực, lực lượg dự bị động viên và dân quân, tự vệ), cấp uỷ, chỉ huy các cấp cần đặc biệt coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phục vụ sự nghiệp xây dựng  lực lượng vũ trang địa phương  vững mạnh, trong đó lấy xây dựng vững mạnh  về chính trị làm cơ sở, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang và cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.Các cơ quan, đơn vị  LLVT địa phương và lực lượng Cựu chiến binhcần gắn kết chặt chẽ quá trình nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh với việc thực hiện chỉ thị 05-CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” chuyên đề toàn khoá nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng “ Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc”, thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “ phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong LLVT và nhân dân đấu tranh phòng chống “diễn biến hoà bình”, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đạt hiệu quả cao. Đó là những việc làm thiết thực góp phần nghiên cứu quán triệt, vận dụng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới./.


 



[1]V.I.Lê nin, toàn tập, tập 23, NXBTiến bộ.M1978,tr54

[2]Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, NXBCTQG,H,2011 Tr 289

[3]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXBCTQG,H,2011, tr180

[4] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng, NXBCTQG,H,2011, tr88

[5] TTKHXH&NVQG-Uỷ ban quốc giaUNESCO của Việt Nam, Hội thảo quốc tế Chủ tịch Hồ Chí Minh-anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn, NXBKHXH,H,1995, tr28,29

[6]TTKHXH&NVQG_Uỷ ban quốc gia UNESCO của Việt Nam, Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh- Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá lớn,NXBKHXH,H,1995, tr 120,66

[7],8TTKHXH&NVQG_Uỷ ban quốc gia UNESCO của Việt Nam, Hội thảo quốc tế về Chủ tịch          Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá lớn,NXBKHXH,H,1995, tr 120,66

 

[9]Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 8, NXBCTQG, H,2011, tr 280.

[10]Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXBCTQG,H,2001, tr84.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét