BÀI
DỰ
THI
CUỘC
THI CHÍNH LUẬN VỀ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG
CỦA ĐẢNG LẦN THỨ BA, NĂM 2023
Chủ đề: |
Sức sống
mãnh liệt, trường tồn của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh |
Loại
hình: |
Tạp
chí |
Hà Nội, tháng 5 năm 2023
SỨC SỐNG MÃNH LIỆT, TRƯỜNG TỒN CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC-LÊ NIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH
Tóm tắt:“Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh- Nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Trải qua thực
tiễn lãnh đạo cách mạng, niềm tin, sự kiên định, lòngtrung thành và sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam đã tạo nên bản
lĩnh, sức mạnh truyền thống, uy tín của Đảng đã quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Yêu cầu xây dựng Đảng, sự nghiệp đổi mới đất nước và tình
hình thế giới đang đặt ra, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu toàn diện, sâu sắc
hơn cả trên phương diện lý luận và thực tiễn nhằm tiếp tục khẳng định giá trị lịchsử,
ý nghĩa to lớn, vĩ đại và sức sống mãnh liệt, trường tồn của chủ nghĩa Mác-Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, nhận thức sâu sắc tầm quan trọng, xác
định những định hướng cơ bản để nghiên cứu, quán triệt, vận dụng, bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”.
Từ khoá: Sức sống mãnh liệt, trường tồn…
Chủ nghĩa Mác-Lê nin là kết
quả đỉnh cao của tư duy khoa học, sản phẩm của hoạt động sản xuất và đấu tranh
cách mạng bền bỉ, sáng tạo của các đảng cộng sản và giai cấp công nhân, nhân
dân lao động trên toàn thế giới. Chủ nghĩa Mác-Lê nin kế thừa, phát triển sáng
tạo thành tựu tư tưởng khoa học của loài người, trong đó trọng tâm là triết học
cổ điển Đức, Kinh tế chính trị học của Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng của
Pháp. Điểm vượt trội của chủ nghĩa Mác-Lê nin so với các học thuyết khác ở chỗ,
nó là học thuyết duy nhất từ trước đến nay đề cập đến mục tiêu, con đường, lực
lượng, cách thức, phương pháp đấu tranh xoá bỏ mọi áp bức bóc lột, bất công, thực
hiện giải phóng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng xã hội, giải phóng
dân tộc và nhân loại. Chủ nghĩa Mác –Lê nin vượthơn hẳn mọi học thuyết khác còn
bởi ở chỗ, nó là học thuyết duy nhất phát hiện, lý giải đúng đắn vai trò của quần
chúng nhân dân đối với sự phát triển của lịch sử, phát hiện và xác lập đúng đắn
vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, là học thuyết duy nhất từ
trước đến nay không bi luỵ, không chịu sự “đỡ đầu” của giai cấp thống trị mà
còn trực tiếp tuyên chiến với giai cấp thống trị, đưa giai cấp công nhân từ địa
vị nô lệ làm thuê lên địa vị lãnh đạo xã hội, lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa nhằm xoá bỏ chế độ áp bức bất công. Với những giá trị cách mạng vĩ đại
đó, chủ nghĩa Mác-Lê nin được giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả
những ai muốn đấu tranh xoá bỏ áp bức bất công, xây dựng một xã hội dân chủ,
công bằng, bình đẳng, đón nhận nhiệt thành và kiên quyết đấu tranh bảo vệ và áp
dụng trong thực tiễn cuộc sống và đấu tranh cách mạng. Ngay từ khi ra đời, chủ
nghĩa Mác-lê nin đã trở thành vũ khí lý luận, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của các đảng cộng sản và giai cấp công nhân trên thế giới. Thực tế
lịch sử cho thấy, từ khi chủ nghĩa Mác-Lê nin ra đời, xâm nhập phong trào đấu
tranh cách mạng của giai cấp công nhân, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc,
đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo thế giới và tính chất của thời đại. Thắng lợi
của Cách mạng Tháng Mười năm 1917 đã mở ra một thời đại mới,thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, chủ nghĩa xã
hội trở thành mục tiêu hướng tới của toàn nhân loại. Cùng với đó, sự hình thành
hệ thống xã hội chủ nghĩa, sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc mạnh mẽ trên toàn thế giới đều được khởi
phát bởi chủ nghĩa Mác –Lê nin. Không chỉ kết tinh giá trị cách mạng, chủ nghĩa
Mác-Lê nin còn bao trùm những giá trị khoa học vĩ đại.Bằng những luận thuyết
tiêu biểu như chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng duy vật, học thuyết
hình thái-kinh tế xã hội, học thuyết giá trị thặng dư, học thuyết đấu tranh giai
cấp, học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân…, chủ nghĩa Mác-Lê
nin đã tạo ra cuộc cách mạng nhận thức trên phạm vi toàn thế giới. Lần đầu tiên
trong lịch sử tư tưởng nhân loại, chủ nghĩa Mác-Lê nin đã đưa ra cách giải
thích thực sự khoa học về nguồn gốc, động lực phát triển của loài người, vạch
trần bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, đấu tranh không khoan nhượng với chủ
nghĩa duy tâm dưới mọi màu sắc, mở đường cho khoa học phát triển, tạo tiền đề
giải phóng con người, giải phóng xã hội khỏi sự thống trị của chủ nghĩa duy tâm
và những quan niệm định kiến bảo thủ, lỗi thời, lạc hậu. Với những giá trị khoa
học vĩ đại đó, chủ nghĩa Mác-Lê nin” đã cung cấp cho loài người và nhất là giaicấp
công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại” ([1]). Năm tháng qua đi, giá trị
của chủ nghĩa nhân đạo, giá trị của chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng
duy vật, linh hồn của chủ nghĩa Mác-Lê nin mãi mãi là những giá trị vĩnh hằng.
Các trào lưu trường phái khác có thể đưa ra những học thuyết mới với những kiến
giải mới dưới mọi màu sắc, quan điểm lập trường khác nhau song suy xét đến
cùng, chỉ có chủ nghĩa Mác-Lê nin là khoa học và cách mạng vì mục tiêu giải
phóng con người, phát triển con người. Nhân loại trong hành trình hướng tới những
giá trị xã hội tốt đẹp luôn luôn cần đến chủ nghĩa Mác-Lê nin. Loài người trong
hành trình khám phá,cải tạo thế giới luôn cần đến sự soi đường chỉ lối của thế
giới quan, phương pháp luận Mác-Lê nin. Đó cũng là những nhân tố biểu hiện tính
chất ưu việt, sức hấp dẫn và sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác-Lê nin.
Trong lịch sử nhân loại,
chưa có một học thuyết chính trị-xã hội nào mà ngay từ khi mới xuất hiện lại
thu hút sự quan tâm nghiên cứu, đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt giữa các lập trường
tư tưởng đối lập nhau như sự ra đời của chủ nghĩa Mác-Lê nin. Điều đó không phải
ngẫu nhiên, bởi chủ nghĩa Mác-Lê nin là một khoa học chân chính, không chỉ giải
thích thế giới mà còn đề cập con đường cải tạo thế giới. Sự ra đời của chủ
nghĩa Mác-Lê nin đã thực sự giải đáp được những vấn đề của thực tiễn cuộc sống
của toàn nhân loại đã và đang đặt ra.Trong lúc toàn bộ hệ thống lý luận tư sản
đều tìm cách biện minh cho chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản, thì ngược lại
chủ nghĩa Mác-Lê nin đã tuyên chiến với hệ tư tưởng tư sản và khẳng định sự diệt
vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản, sự tất yếu, tất thắng của chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác –Lê nin không
chỉ tuyên chiến với hệ tư tưởng của giai cấp thống trị mà chỉ ra con đường
đấu tranh với tất cả những trào lưu tư tưởng, tập tục định kiến bảo thủ lỗi thời,
tàn dư của xã hội. Bởi có tinh thần khoa học triệt để cách mạng, chủ nghĩa
Mác-Lê nin đã trở thành kẻ thù lớn nhất, nỗi bận tâm, ám ảnh lớn nhất về mặt tư
tưởng lý luận của chủ nghĩa tư bản hiếu chiến phản động và tất cả những thế lực
muốn duy trì sự thống trị bất công trong đời sống nhân loại. Chính vì lẽ đó,
cho nên, kể từ khi ra đời cho đến nay, chủ nghĩa Mác-Lê nin luôn luôn bị kẻ thù
đủ loại chống phá điên cuồng. Các thế lực phản động đã không từ một âm mưu thủ
đoạn nào trong chống phá chủ nghĩa Mác-Lê nin. Chúng tiến công từ những vấn đề
cơ sở của sự ra đời, , từ quá trình vận động, phát triển đến việc vận dụng chủ
nghĩa Mác-Lê nin trong thực tiễn. Chúng xuyên tạc thân thế, sự nghiệp của các
nhà kinh điển, công kích toàn bộ nội dung, các bộ phận cấu thành của chủ nghĩa
Mác-Lê nin,lợi dụng triệt để việc các đảng cộng sản, các nhà nước xã hội chủ
nghĩa hiểu chưa đúng đủ, vận dụng sai lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin trong thực
tiễn. Chúng tập trung chống phá những luận điểm, những lý luận nguyên tắc căn bản,
then chốt có ý nghĩa quyết định bản chất nhất của chủ nghĩa Mác-Lê nin. Chúng
tiến công trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, đánh vào chủ nghĩa xã hội
hiện thực, sản phẩm của chủ nghĩa Mác-Lê nin trong thực tế. Chúng triệt để lợi
dụng sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu và những khó khăn bất
cập của các nước xã hội chủ nghĩa để xuyên tạc bản chất cách mạng khoa học của
chủ nghĩa Mác-Lê nin. Chúng đánh đồng qui chụp rằng sự khủng hoảng của chủ
nghĩa xã hội hiện thực chính là sự lỗi thời lạc hậu của chủ nghĩa Mác-Lê
nin..Tuy nhiên, điều kỳ lạ, bất chấp sự chống phá điên cuồng và những thăng trầm
lịch sử, chủ nghĩa Mác-Lê nin ngày càng tỏ rõ sức sống vĩ đại và sự lan toả mạnh
mẽ. Những biến đổi dù phức tạp, khó lường của thế giới hiện nay vẫn chưa vượt
qua khỏi những qui luật mà chủ nghĩa Mác-Lê nin đã khái quát. Sự khủng hoảng
nghiêm trọng đầy bất ngờ của chủ nghĩa tư bản hiện đại đã làm lung lay, lu mờ
các giá trị, niềm tin về nền tảng lý luận tư sản. Trong bối cảnh ấy, không chỉ
nhân loại tiến bộ mà ngay cả các chính trị gia, các học giả tư sản đều nhận rõ
hơn giá trị khoa học “ vượt trước thời đại” của chủ nghĩa Mác- Lê nin. Chính
nhiều học giả, nhiều chính khách tư sản đã khẳng định thế kỷ XXI vẫn là thế kỷ
của chủ nghĩa Mác. Trong các cuộc bình chọn của một số tổ chức truyền thông
khoa học, giáo dục danh tiếng thế giới, các nhà kinh điển sáng lập ra chủ nghĩa
Mác-Lê nin, đặc biệt là Các- Mác luôn giữ vị trí đứng đầu. C.Mác được suy tôn
là “nhà triết học vĩ đại của mọi thời đại”. Cũng chính các học giả tư sản, trước
cơn khủng hoảng bế tắc của chủ nghĩa tư bản, đã kêu gọi nhân loại “trở về với
Mác”, rằng “nhân loại sẽ không có tương lai nếu không có Mác, nếu không có các
di sản của Mác”, rằng” sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác là bất diệt”, “vai
trò dẫn đường của thời đại mới vẫn chính là chủ nghĩa Mác”..Những điều nêu trên
là minh chứng hùng hồn cho sức sống trường
tồn của Chủ nghĩa Mác-Lê nin trong tình hình mới.
Cùng với chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
ngày càng tỏ rõ giá trị khoa học, cách mạng, sức sống lan toả mãnh liệt ở Việt
Nam và các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới. Chủ nghĩa mác-Lê nin là cội
nguồn, nhân tố sinh thành Đảng cộng sản Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lấy chủ nghĩa Mác-Lê
nin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Trải qua 93
năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tỏ rõ niềm tin,sự kiên định
với chủ nghĩa Mác-Lê nin trước những biến đổi lớn lao, phức tạp của thời cuộc.
Niềm tin và sự kiên định đó đã được Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh đặt nền móng và
khẳng định ngay từ khi cách mạng còn trong trứng nước. Năm 1927, trong tác phẩm
Đường cách mệnh, Người đã viết: “ bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều,
nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê
nin”,” Đảng muốn vững phải có có chủ nghĩa làm cốt”; “ Đảng mà không có chủ
nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” ([2]). Văn kiện Đại hội lần thứ
XI của Đảng cộng sản Việt Nam có ghi: “ Trong bất kỳ điều kiện và tình huống
nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng
sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”([3]). Thực tế đã chứng tỏ, chính
niềm tin, sự kiên định, trung thành vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin là cội
nguồn tạo nên những thắng lợi rực rỡ cho dân tộc và cách mạng Việt Nam. Sự ra đời
của Đảng cộng sản Việt Nam, thành công của cách mạng Tháng Tám năm 1945, thắng
lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng như thắng lợi của công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay, trước hết và trên hết, đó chính là thắng lợi,
thành quả của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, minh chứng cho sức sống
vĩnh hằng của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người
có công lao to lớn trong nghiên cứu, truyền bá , tổ chức vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác-Lê nin vào điều kiện cụthể Việt Nam, đưa đến những thắng lợi vĩ đại của
cách mạng Việt Nam. Chính quá trình này
đã đưa đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác-Lê nin là nguồn gốc
lý luận trực tiếp quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII, tháng 6/1991, Đảng ta xác định: “ Chủ nghĩa Mác-Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng”([4]). Đến Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “ Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin vào điều kiện cụ
thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn
và quí giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta giành thắng lợi” ([5]). Thực tế cách mạng nước ta
cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở thành tài sản tinh thần vô cùng to lớn
và quí giá của Đảng và dân tộc ta, đã cổ vũ, soi đường cho sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta giành thắng lợi. Chính vì lẽ đó, mà trải qua biết bao khó khăn
của cách mạng, thăng trầm của lịch sử nhưng toàn đảng, toàn dân, toàn quân ta vẫn
kiên định, tin tưởng, phấn đấu theo con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã phát hiện, lựa chọn, cống hiến cho dân tộc Việt Nam, đó là Độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Điều đó thật sự cảm động, nhận được sự khâm phục của cộng
đồng thế giới, bởi trong lịch sử xã hội loài người, chưa có ở đâu, tình cảm và
sự tin yêu của người dân đối với lãnh tụ lại sâu sắc, sắt son từ trong tâm khảm
đến hiện thực cuộc sống như toàn dân Việt Nam đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bất
chấp sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động, thân thế, sự nghiệp, tư
tưởng của người mãi mãi hiện diện trong tâm thức của mọi thế hệ người dân Việt Nam, soi đường, chỉ
lối cho toàn đảng, toàn dân, toàn quân ta phấn đấu thực hiện mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không chỉ ở Việt Nam, trên thực tế, thân thế, sự
nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh có tầm ảnh hưởng thời đại, đã và đang có sức lan
toả rộng rãi trên phạm vi toàn thế giới. Do những cống hiến đặc biệt xuất sắc
cho dân tộc Việt Nam và nhân loại, nên Người đã được thế giới suy tôn là Anh
hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở
thành tấm gương, biểu tượng, niềm tin của các dân tộc trên thế giới trong cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, chống áp bức nô dịch, bất bình đẳng giữa các dân
tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, về văn hoá, về con người đã được
thế giới thừa nhận như là tư tưởng góp phần làm biến đổi bộ mặt thế giới. Tư tưởng
của Người đã đi vào cuộc sống, đã trở thành những giá trị văn hoá bền vững,
không chỉ riêng của dân tộc Việt Nam mà còn là tài sản chung của nhân loại.
Đúng như Tiến sĩ M.Át-Mét, giám đốc UNESCO khu vực Châu á- Thái Bình Dương nhận xét: “ Chỉ có ít
nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay từ khi còn sống
và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó. Người sẽ được ghi nhớ không phải chỉ
là người giải phóng dân tộc cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà
hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người
đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái
đất này” ([6]).
Bước vào thế kỷ XXI, trước
những diễn biến phức tạp của đời sống chính trị thế giới, trước tác động tiêu cực
của toàn cầu hoá nền kinh tế, các quốc gia dân tộc đang nỗ lực đấu tranh gìn giữ
hoà bình, chủ quyền, bản sắc văn hoá dân tộc. Trong bối cảnh đó, tư tưởng Hồ
Chí Minh càng tỏ rõ giá trị được quan tâm nghiên cứu và truyền bá ở nhiều quốc
gia, dân tộc. Một học giả nước ngoài từng nhận xét tinh tế: “ Hồ Chí Minh làm
cách mạng không chỉ giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột,mà cái cao quí nhất
là để giải phóng con người khỏi nền văn hoá nô dịch và xây dựng nền văn hoá dân
tộc…cuộc đời hoạt động và sự nghiệp vĩ đại của Người là tấm gương cao đẹp và
trong sáng về một quan niệm nhân sinh về thế giới, toả sáng chủ nghĩa nhân văn
mới, kết tinh những tư tưởng, tình cảm, những ước mơ lớn của nhân loại. Bởi thế,
những tư tưởng văn hoá của Người đến với các dân tộc như một lẽ tự nhiên có sự
cổ vũ sâu sắc mỗi con người, mỗi dân tộc” ([7]). Chính bởi những lý do bình
dị mà vĩ đại đó, “ Người không phải là một kỷ niệm của quá khứ. Người là một
con người diệu kỳ cho tất cả mọi thời đại”([8]).
Tầm quan trọng và định hướng
cơ bản trong nghiên cứu quán triệt, vận dụng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa
Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Nhận thức rõ tầm quan trọng
của việc học tập lý luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “ Đảng phải chống
cái thói xem nhẹ học tập lý luận. Vì không học tập ký luận thì chí khí kém kiên
quyết, không trông xa thấy rộng, trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết
quả là “mù chính trị”, thậm chí hủ hoá, xa rời cách mạng”([9]). Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX của Đảng khẳng định quyết tâm: “ Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng
đất nước Việt Nam theo con đường Xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-
Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh ([10]). Điều đó đòi hỏi bức thiết
chúng ta phải luôn coi trọng nghiên cứu, quán triệt, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh công cuộc đổi mới đất
nước, hội nhập quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu, tình hình thế giới tiếp tục
diễn biến phức tạp. Cuộc xung đột giữa Nga-Ucraina,
thực chất là cuộc chiến giữa Mỹ, Phương Tây và Nga ngày càng sâu sắc, thảm hoạ
động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ và Syri vừa qua làm cho thế giới đã bất ổn càng trở nên bất
ổn hơn, nhiều vấn đề mới nảy sinh trong đời sống xã hội đòi hỏi lý luận phải giải
đáp thấu đáo, trong khi đó, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, có biểu hiện
mơ hồ mất cảnh giác trước âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, sa sút về
phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, mắc vào nạn tham ô, lãng phí, tiêu cực,
nhiều cán bộ, đảng viên mắc căn bệnh sao nhãng việc học tập lý luận….,đó là mảnh
đất tốt để các thế lực phản động, gieo rắc mầm mống chống phá ta. Để việc
nghiên cứu vận dụng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh thực sự có hiệu quả, mỗi chúng ta cần tập trung thực hiện tốt một số giải
pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, cần tiếp tục nghiên cứu sâu sắc, toàn diện, khẳng định những
giá trị khoa học, cách mạng vĩ đại của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, coi trọng đầu tư nghiên cứu sâu sắc, toàn diện hệ thống lý luận kinh điển
của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng HồChí Minh, qua đó tiếp tục phát hiện, khẳng
định những giá trị khoa học, cách mạng mới. Cần bám sát tình hình thế giới,
trong nước, kiên định lập trường, thế giới quan duy vật biện chứng để nghiên cứu
tổng kết thực tiễn, khái quát kinh nghiệm, góp phần bổ sung, phát triển lý luận
Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên quyết đấu tranh, khắc phục các biểu hiện
chủ quan, kinh nghiệm, “sinh lý luận”, tư biện, máy móc, giáo điều trong nghiên
cứu, quán triệt,, giáo dục, phổ biến lý luận.
Thứ hai, tuyệt đối trung thành, tin tưởng, kiên định, tổ chức vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình đổi mới đất
nước, hội nhập quốc tế. Lý luận cách mạng chỉ thực sự có ý nghĩa “soi đường,chỉ
lối”, trở thành sức mạnh trong cải tạo thực tiễn khi nó thâm nhập vào phong
trào cách mạng, xâm nhập hướng dẫn nhận thức, thái độ hành vi của mỗi con người.
Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động của Đảng và cách mạng nước ta. Do vậy, mọi cán bộ, đảng viên phải tuyệt
đối trung thành, tin tưởng, kiên định, mẫu mực, kiên trì học tập, quán triệt vận
dụng lý luận Mác-Lê nin trong mọi hoạt động thực tiễn, hết sức tránh các hiện
tượng thiếu nhất quán giữa lời nói và hành động, nói và làm không theo nghị quyết
của Đảng, hoặc hành động chủ quan, kinh nghiệm, duy ý chí, kém lý luận, khinh
lý luận hoặc lý luận suông. Trên cơ sở kết quả tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu
lý luận,tăng cường nghiên cứu các giải pháp tuyên truyền phổ biến, giáo dục
nâng caohiểu biết cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân về những nguyên
lý, giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở
thành hệ giá trị chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội nước ta.
Thứ ba, chủ động, tích cực đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu xuyên
tạc, chống phá chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch,
cơ hội, phản động. Để bảo đảm định hướng chính trị, cần tăng cường vai trò lãnh
đạo, chỉ đạo, quản lý của cấp uỷ, chính quyền các cấp. Phát huy vai trò tiền
phong gương mẫu của đội ngũ đảng viên, bồi dưỡng nâng cao năng lực đấu tranh
cho toàn dân, coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận có tâm có tầm, trên cơ
sở đó, phát huy sức mạnh tổng hợp để cuộc đấu tranh chống “ diễn biến hoà bình”
trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, lý luận thực sự có hiệu quả. Theo hướng đó,
cần tập trung nâng cao chất lượng đấu tranh phản bác, tiến công tư tưởng, lý luận
chống các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng tăng hàm lượng khoa học, tăng
độ sâu lý luận, cập nhật thông tin, luận cứ, luận chứng sắc bén, có lý,có
tình,có sức thuyết phục. Các cơ quan chức năng cần theo dõi, cập nhật thông tin
cho các lực lượng chuyên trách và cho toàn dân hiểu rõ dã tâm, âm mưu, thủ đoạn
chống phá của các thế lực thù địch,qua đó giáo dục tăng cường sức đề kháng,
nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân
Thứ tư , đối với lực lượng cựu chiến binh, là lực lượng đông đảo đã từng
hy sinh cống hiến xương máu, cùng toàn đảng, toàn dân giành lại độc lập tự do
cho tổ quốc, nên hơn ai hết, lực lượng này rất thấu hiểu giá trị của độc lập tự
do, nhiều đồng chí cán bộ, hội viên cựu chiến binh đã trải qua các cương vị lãnh đạo, chỉ huy
trong quân đội, được đào tạo cơ bản, có kiến thức chuyên sâu cả về lý luận
chính trị và trình độ kỹ, chiến thuật, có bản lĩnh chính trị vững vàng, nay về
đời thường, nhiều đồng chí tiếp tục tham gia công tác ở địa phương, được cấp uỷ
địa phương và nhân dân tín nhiệm phân công đảm nhiệm các cương vị chủ chốt,
quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của hệ thống chính trị ở cơ sở, nhiều đồng chí
giữ cương vị Bí thư cấp uỷ, tổ trưởng, tổ phó tổ dân phố, trưởng, phó các đoàn
thể và mặt trận tổ quốc, trưởng, phó tổ bảo vệ, an ninh nhân dân…)., đây là lực
lượng nòng cốt tin cậy, tinh nhuệ trong bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, nhân
dân ở khu dân cư. Đặc biệt là lực lượng
xung kích trong đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái thù địch của các phần tử phản động, lạc hậu. Vì thế, để phát
huy vai trò, hiệu quả của lực lượng cựu chiến binh đối với nhiệm vụ bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng, cấp uỷ, chính quyền các cấp cần quan tâm bồi dưỡng, tạo điều kiện để lực lượng cựu chiến binh thường xuyên nắm bắt
tình hình, tiếp nhận nguồn thông tin
chính thống, có cơ sở lý luận để bảo vệ các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời chủ động đấu tranh phản bác các
quan điểm sai trái thù địch của các thế lực thù địch. Lực lượng cựu chiến binh
thường xuyên phối hợp với các lực trong cơ quan và trên địa bàn, đặc biệt là phối
hợp với lực lượng công an, quân đội, cơ quan quân sự địa phương, Đoàn thanh
niên, Hội phụ nữ..trong tổ chức các hoạt động, nhất là hoạt động tuyên truyền
giáo dục truyền thống Quân đội, truyền thống của Đảng, của Đoàn, truyền thống của
Cựu chiến binh…nhân các ngày lễ kỷ niệm lớn của đất nước và thủ đô, qua đó bồi
dưỡng, giáo dục và giác ngộ lý tưởng cách mạng cho các tầng lớp nhân dân ở địa
phương, tạo thế trận đấu tranh to lớn, mạnh mẽ, rộng khắp, làm thất bại mọi âm
mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ nhân dân ở cơ sở.
Thứ năm, đối với LLVT địa phương (bao gồm lực lượng thường trực, lực
lượg dự bị động viên và dân quân, tự vệ), cấp uỷ, chỉ huy các cấp cần đặc biệt
coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, vận dụng chủ
nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phục vụ sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh, trong đó lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở, góp phần tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang và cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.Các cơ quan, đơn vị LLVT địa phương và lực lượng Cựu chiến binhcần
gắn kết chặt chẽ quá trình nghiên cứu học tập chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh với việc thực hiện chỉ thị 05-CT/TW “Về đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” chuyên đề toàn khoá nhiệm kỳ Đại hội
XIII của Đảng “ Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về
ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc”,
thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “ phát huy truyền thống, cống hiến tài
năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn thể cán
bộ, chiến sĩ trong LLVT và nhân dân đấu tranh phòng chống “diễn biến hoà bình”,
phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, phòng, chống tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực đạt hiệu quả cao. Đó là những việc làm thiết thực góp phần nghiên
cứu quán triệt, vận dụng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh trong tình hình mới./.
[1]V.I.Lê nin, toàn tập, tập 23, NXBTiến bộ.M1978,tr54
[2]Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, NXBCTQG,H,2011 Tr 289
[3]Đảng Cộng
sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXBCTQG,H,2011,
tr180
[4] Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại
hội đại biểu lần thứ XI của Đảng, NXBCTQG,H,2011, tr88
[5] TTKHXH&NVQG-Uỷ ban quốc giaUNESCO của Việt Nam, Hội thảo quốc tế Chủ tịch Hồ Chí Minh-anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn, NXBKHXH,H,1995, tr28,29
[6]TTKHXH&NVQG_Uỷ ban quốc gia UNESCO của Việt Nam, Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh- Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá lớn,NXBKHXH,H,1995, tr 120,66
[7],8TTKHXH&NVQG_Uỷ ban quốc gia UNESCO của Việt Nam, Hội thảo
quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá lớn,NXBKHXH,H,1995, tr 120,66
[9]Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 8, NXBCTQG, H,2011, tr 280.
[10]Đảng cộng sản Việt
Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXBCTQG,H,2001, tr84.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét